Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng thì đình, đền Viễn Lãm được xây dựng vào thời hậu Lê, được trùng tu nhiều lần vào thời nhà Nguyễn. Kiến trúc đình theo kiểu dáng chữ đinh (J), một toà đại bái 5 gian 2 dĩ; hậu cung 3 gian; với kiểu cách 4 mái đao cong, chồng bồn kẻ nghé, các xà, kẻ, bẩy đều được chạm khắc hình tứ linh, vân, mây, đao mác, kết cấu khung gỗ lòng thuyền với 6 hàng chân cột to và chắc khỏe, các gian cạnh được làm sạp gỗ cách mặt nền 0,50m xung quanh đình để luỗng tạo sự thông thoáng, thâm nghiêm của chốn đình trung. Kiến trúc đền được làm theo kiểu dáng kiến trúc chữ nhất ( - ), một tòa 3 gian thờ dọc, được trùng tu, tôn tạo vào giữa và nửa sau thời Nguyễn. thanh Căn cứ vào bản ngọc phả đình, đền Viễn Lãm ký hiệu FQ 418/XV.2 được sao từ Viện nghiên cứu Hán Nôm – Hà Nội có niên đại năm Hồng Phúc nguyên niên 1572 do Hàn Lâm viện Đông Các đại học sỹ Nguyễn Bính soạn và được Quản giám bách thần tri điện hùng lĩnh Nguyễn Chất sao lại năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) sao lại, hệ thống sắc phong gốc cùng những tảng đá kê chân cột và nhiều di vật, cổ vật khác còn được bảo lưu trong cụm di tích thì có thể khẳng định đình, đền Viễn Lãm được xây dựng từ thời hậu Lê - thế kỷ XVIII, và đều được trùng tu, tôn tạo nhiều lần sau này vào thời Nguyễn.
Trải qua thời gian, những cuộc chiến tranh kéo dài của dân tộc Việt Nam đã tác động làm cho di tích không còn được nguyên vẹn, chỉ còn lại những dấu xưa tích cũ của ngôi đình, đền cổ. Năm 1938 cụ Bà Nguyễn Thị Hậu cùng nhân dân công đức phục hồi lại với kiến trúc nhỏ gọn làm nơi hội tụ tâm linh và họp bàn của nhân dân làng Viễn Lãm. Sau Cách mạng tháng 8/ 1945 đình, đền được sử dụng làm nơi hội họp của dân quân du kích trong vùng và làm trụ sở hợp tác xã. Hậu quả của chiến tranh đình một lần nữa bị phá còn lại gian hậu cung. Tri ân công đức các bậc tiền nhân với tấm lòng thành kính “Uống nước nhớ nguồn” nhân dân làng Viễn Lãm vẫn chăm nom hương khói phụng thờ, tôn vinh công lao của vị thành hoàng có công với dân với nước. Đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, năm 2005 UBND tỉnh Phú Thọ đã cho phép trùng tu, tôn tạo đại bái theo kiểu dáng và kết cấu truyền thống của ngôi đình cổ trước kia nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hoá vật thể, phi vật thể vốn trong di tích đình Viễn Lãm.
* Kiến trúc Đình Viễn Lãm
Đình Viễn Lãm tọa lạc trên khu đất bằng phẳng trung tâm làng Viễn Lãm, đình được xây dựng nhìn quay theo hướng Tây Nam. Mặt bằng tổng thể di tích là 1999m lần lượt từ ngoài vào trong như sau:
Mặt trước đình là cánh đồng chiêm trũng và chân ruộng thấp ngập nước quanh năm, xa xa là dòng sông Đà cuộn chảy về xuôi, thấp thoáng trong mây nổi lên ngọn núi Ba Vì sừng sững làm tiền án cho di tích, giáp diện tích đất đình 3 phía là đường dân sinh nối liền ngõ xóm và khu dân cư đông đúc. Qua khoảng sân đình rộng 11,5m x dài 18,7m đứng giữa sân đình ngắm tổng thể kiến trúc di tích ta thấy đại bái ngồn ngộn 5 gian 2 dĩ, nên đình được dật cấp cao hơn sân đình khoảng 0,87m, ta nhìn thấy sự thông thoáng của một ngôi đình với 4 hàng chân cột chạy song song đỡ lấy kết cấu mái đình xòe rộng rồi lan xuống thấp và cong dần lên. Đường cong của mũi ngói từ nóc đến giữa uốn nhẹ và khi gần kết thúc lượn vút lên ăn khớp với đường mũi ngói mái bên cạnh vừa chạy tới, vươn cao thành đao đình cách điệu tứ linh. Bốn mái đao cong, chạy cùng đường cong là các đường gờ, đường soi của lá mái, lá diềm lượn cùng nhịp độ. Bờ nóc đình như vẫn còn ghi dấu về tục thờ mặt trời của cư dân làm lúa nước, đó là hình đôi rồng lớn từ 2 đầu bò xoải vào chầu mặt trời, mong cho dân khang vật thịnh, bờ giải được đắp trơn gần xuống tới đao đình mới có rồng ghìm đạo lại.
Bước lên 5 bậc dật cấp mỗi bậc cách nhau 0,33m vào tòa đại bái. Với kết cấu kiến trúc kiểu dáng chữ Đinh (J) gồm đại bái và hậu cung. Đại bái có 5 gian, 2 dĩ, chiều dài tổng thể 18,7 x rộng 8,4m mỗi gian cách đều nhau 3,6m, được mở 3 khuông cửa chính, khuông cửa giữa to, rộng hơn 2 khuông cửa bên cạnh. Kết cấu kiến trúc bộ khung đại bái được làm bê tông cốt thép, các cấu kiện và chi tiết cột, xà được bê tông sơn giả gỗ, các vì kèo đều được làm theo kiểu chồng bồn. Hệ thống cột gồm 2 loại; cột cái và cột quân, 8 cột cái chu vi 1,36 m, cao 3,85m; cột quân chu vi 0,90m cao 2,48m. Các cột giàn đều chịu lực đỡ bộ khung mái, các cấu kiện và chi tiết phần mái được làm bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương, từ thượng lương xuống nền đình có độ cao là 5,1m, nền đình lát gạch bát đỏ sạch sẽ, giữa đình trung được bố trí sắp đặt án gian, sập thờ, đồ tế khí...đúng với phong cách truyền thống của ngôi đình cổ. Hậu cung đình 1 gian nhỏ gọn thấp hơn so với đại bái, dài 3,7m x rộng 3,5m được bao bọc bởi tường xung quanh, bên trong bài trí bục đặt 2 long ngai, bài vị của Thành hoàng và phu nhân, mái lợp ngói mũi hài truyền thống, nền lát gạch bát đỏ sạch sẽ.
Tóm lại: đình Viễn Lãm có qui mô kiến trúc không lớn quá, không nhỏ quá, không gian nội thất đình cao ráo thoáng mát, tạo sự hài hòa ấm cúng. Đình Viễn Lãm được phục hồi trên nền móng cũ nhưng những chi tiết phần khung cứng cũng như phần mái được làm cẩn thận, mực thước đảm bảo kiểu dáng truyền thống làm cho di tích càng có giá trị và tăng thêm sự thâm nghiêm mỗi khi bước chân vào tham quan di tích.
* Kiến trúc Đền Viễn Lãm
Cách đình Viễn Lãm 300m về phía Đông Nam có ngôi đền tọa lạc trên khu đất bằng phẳng có diện tích là 79m2 được làm quay theo hướng Tây Nam, xung quanh là dân cư khu 9, mặt tiền đền được trang trí đắp nổi hình hổ phù càm chữ thọ, bên dưới là hai đôi câu đối đã bị thời gian phủ mờ. Với kiểu dáng kiến trúc chữ nhất (--) gồm: 1 tòa 3 gian thờ dọc, tổng chiều dài là 9,57m x rộng 5,87m mỗi gian cách nhau từ 3,3m đến 3,7m, các gian được kết nối với nhau bằng hệ thống quá giang gối tường. Cũng giống như đình, đền Viễn Lãm đã từng tồn tại trong lịch sử phát triển của làng xã Việt Nam, được trùng tu tôn tạo nhiều lần vào thời Nguyễn và sau này. Minh chứng đó được thể hiện trên cấu kiện gỗ chắp vá ở câu đầu và thượng lương ngôi đền, phần khung cứng của đền được xây dựng hoàn toàn bằng vôi vữa, đá ong một trong những loại vật liệu truyền thống, đặc trưng của vùng trung du Phú Thọ. Trong đền được bố trí bục dài 2,75m x rộng 2,07m, bên trên đặt tượng Bảo Xuân công chúa, phía trước và phía sau tượng đặt 2 bộ long ngai bài vị của Đương cảnh thành hoàng và Quế Hoa trinh thục công chúa và thần thổ địa phối thờ chung. Ngoài ra bên trên bài trí những đồ tế khí, di vật, cổ vật rất có giá trị.
Như vậy đền Viễn Lãm cũng thờ Đương cảnh thành hoàng và các vị thần giống như đình Viễn Lãm và có mối quan hệ mật thiết với di tích đình Viễn Lãm thông qua các cứ liệu Ngọc phả và các ngày lễ tiệc hàng năm. Với qui mô kiến trúc nhỏ gọn vừa phải đền Viễn Lãm là một trong những di tích liên quan có giá trị về khoa học, lịch sử trong quần thể di tích liên quan đến thời kỳ Hùng Vương tại làng Viễn Lãm.
Lăng mộ - di tích liên quan
Từ những truyền ngôn
của nhân dân cũng như ngọc phả chép sự hóa của Hoàng Quản Công “Quản Công từ sau lúc dẹp giặc xong đất nước trở lại thanh bình, ông xin vua trở lại cung ấp (tức Sám Cung) để bái yết gia đường, tiên tổ. Vua đồng ý và ban tặng 100 hốt vàng cùng gấm, lụa, vải vóc 1000 vuông. Quản Công khấu đầu cảm ơn trước bệ rồng rồi trở lại cung xưa, đến Đà Giang (tức Sám Cung tại trang Bảo Khang). Bỗng thấy 2 con rắn hoa từ dưới lăng phần chạy đến trước mặt ông, nhanh chóng quấn quanh người ông 3 vòng, ông nằm lại tại lăng và hóa (hôm đó ngày 10 tháng 2 năm Giáp Thân). Trời đất bỗng chốc tối sầm, sấm gian chớp dật vạn lý cuồng phong. Gia thần nhân dân cùng an táng ông, lễ vừa xong lập tức đã thấy thổ trùng (mối) phong thành mộ lớn. Nhân dân dâng tấu đến triều đình, Vua nghe việc đó sai sứ thần mang sắc chỉ mỹ tự về nơi dân sở tại. Cho phép được chính tế và phụng thờ, huyết thực vạn cổ, hương hỏa muôn đời trường tồn cùng đất nước”. Hiện tại khu lăng mộ của các ngài nằm bên trái Đầm Voi, khu đầm khi xưa trẻ chăn trâu thường hay tắm, dân làng thường ra nơi đây để cúng tế trừ tịch đêm 30 tết hàng năm. Khu lăng mộ đã bị xuống cấp: Lăng dài 2,63m x rộng 1,93m x cao 0,97m; vòm lăng cao 0,27m. Trước có 4 chữ “Bảo Đại tu tác” nghĩa là đã được tu tạo dưới triều vua Bảo Đại. Đó có lẽ là lần trùng tu gần nhất, trước đó lăng cũng đã được trùng tu, từ những dấu vết tu sửa của các lớp đá ong và gạch vồ. Hình dáng và kích cỡ của lăng mộ là vừa phải phù hợp với kiến trúc lăng tẩm cổ truyền và vị thần được thờ trong di tích. Khi các ngài hóa được mối xông thành mộ, về sau nhân dân tôn tạo thành lăng mộ. Những chất liệu như: đá ong, vữa pha mật, gạch thủ công cỡ lớn...giúp chúng ta đoán định được niên đại xây dựng và trùng tu của lăng vào khoảng thế kỷ (XVII-XVIII).
Phương Thịnh