Các chữ huý: Bích, Bảy, Quản, Quế, Bảo, Xuân đều cấm (màu tía, màu vàng, màu trắng đều cấm).
Lệ sinh thần ngày 7 tháng giêng chính tiệc (Lễ dùng có 1 bàn bánh đĩa trắng, lợn đen, xôi, rượu ).
Ngày khánh hạ ngày 10 tháng 2 chính tiệc.
- Ngày sinh thần 4 tháng 4 chính tiệc (Trước 1 ngày nhân dân hành lễ đến nhà con trưởng; lợn đen, xôi, rượu, nghênh hồi vọng cung hành lễ, tế lễ, xướng ca). Các bộ phụng nghênh Sơn Thánh tam vị quốc chúa thiên vương hồi cung sở. Hội đồng dân làng hành lễ, trâu, dê, xôi, rượu, 3 bàn cỗ chay, bánh tròn trắng, đấu cờ 3 ngày, xưởng ca có cả.
- Lệ sinh thần, ngày 4 tháng 5 chính tiệc (trước 1 ngày phụng nghênh Tản Viên Sơn Thánh hồi cung nhân dân cùng hành lễ, xướng ca 1 đêm, cỗ chay 2 bàn, lợn đen, xôi, rượu phải có).
- Lệ hóa thần ngày 10 tháng 10 chính tiệc (Lễ dùng có thịt bò, dê, xôi, gà trống gà mái, 3 cỗ chay, hương hoa).
- Lệ hóa thần, 2 vị đồng hóa ngày 10 tháng 10 chính tiệc; (có lợn đen, gà * trống, gà mái, bánh đĩa trắng, xôi, rượu, 2 bàn cỗ chay).
* Lễ hội đình, đền Viễn Lãm
Lễ hội đình, đền Viễn Lãm cũng như bao đình, đền khác ở vùng trung du Phú Thọ được tách riêng thành 2 phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ là hệ thống hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của dân làng đối với thần linh, lực lượng siêu nhiên nói chung, thần thành hoàng nói riêng, phản ánh những nguyện vọng ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống. Lễ hội đình Viễn Lãm diễn ra trong 3 ngày, tiệc chính vào ngày 10, 11, 12 tháng 2 (âm lịch). Trước đó 1 tháng dân làng đã chọn ra đủ ban tế từ 13 đến 15 người: Chủ tế (Mệnh bái) là vị có tuổi gia đình song toàn, con cái làm ăn phát đạt, chủ tế có trách nhiệm lễ thần; Bồi tế (2-> 4 người) giúp chủ tế, đứng sau chủ tế hành lễ theo chủ tế; Đông xướng, Tây xướng phụ trách nghi thức trong lúc tế, đứng đối nhau bên cạnh hương án; Nội tán (2 người) đứng bên cạnh chủ tế khi ra vào và trợ xướng; Chấp sự (6 -> 8 người) là những người đứng hai bên phụ trách việc dâng hương, dâng rượu, chuyển chúc, đọc chúc. Ban tế là những người làm việc nhà thánh, đại diện cho dân, phải có đức độ, trong sạch (gia đình không vướng tang) mới mong đem lại may mắn cho làng. Khi được chọn xong họ phải sống chay tịnh khoảng 15 ngày trước khi diễn ra ngày hội. Sáng ngày 10/2 (âm lịch) sau khi sửa soạn lễ vật, trang phục xong Ban hành tế bắt đầu làm việc. Với ý nghĩa đón rước và thỉnh mời thần về dự hội hâm hưởng lễ vật (lễ vật gồm có thịt trâu, dê, lợn và các loại cỗ chay) đồng thời là dịp dân làng chúc tụng thần, bày tỏ lòng biết ơn của làng với thân và cầu mong thần bảo hộ cho làng như thần đã từng bảo hộ. Buổi tế kéo dài khoảng hai tiếng, khoảng ngoài 30 lần xướng tế kể từ lời đầu tiên “Khởi chinh cổ” (Nổi chiêng trống) đến câu cuối cùng “Lễ tất”

(Lễ xong). Theo dõi buổi tế ta thấy có 3 tuần (Hành sơ, hành á, hành chung) dâng rượu và đầy đủ các bước sau:
+ Thủ tục sửa soạn, từ lúc khởi chiêng trống đến lúc dâng hương thu phát
+ Lễ cáo thần
+ Dâng rượu
+ Đọc chúc và hóa chúc
+Lễ tạ...
3 tuần tế được lặp đi lặp lại trong tiếng chiêng to hòa với tiếng trống cái cùng nhịp điệu của trống đồng văn và phường bát âm hỗ trợ thay phiên nhau tấu, hoặc có khi đồng tấu, làm không khí buổi lễ trở lên linh thiêng và hấp dẫn. Tế xong dân làng tiếp tục hành lễ và kết thúc ngày ngày thứ nhất lễ hội.
Ngày thứ 2 lễ hội (11/2/âm lịch) sau khi có đầy đủ quan viên làng xã, dân trên xóm dưới ông mệnh tế nổi 3 hồi trống rồi tuyên bố rước thánh đi nghênh mời Thánh Tản. Lúc này hòa nhịp trong niềm hân hoan của dân chúng trong việc chào đón hội làng, loa làng đi trước đọc to:
Làng ta mở hội tưng bừng
Chiêng khua trống gióng vang lừng đôi bên
Long ngai thánh ngự ở trên
Tả văn hữu vũ bốn bên rồng chầu
Sinh ra nam tử công hầu
Sinh ra con gái vào châu thánh quân...
Có thể nói nếu hội làng là điểm hội tụ những tinh hoa của nền văn minh xóm làng thì đám rước là hình ảnh tập trung nhất của hội làng, là biểu trưng của sức mạnh cộng đồng đang vận động trước mắt mọi người một cách tráng lệ. Bởi ai cũng biết đã được nhập cuộc, khoác bộ lễ phục đi trong đám rước huy hoàng, dù là chân kiệu, hay chủ tế, dù thiếu niên hay bô lão, chức sắc hay bạch đinh, nam hay nữ, đều phải qua vòng tuyển lựa nghiêm túc theo lệ làng đúng như câu:
Trai thanh tân chân quì vai kiệu
Gái yểu điệu phù giá nữ quan
Đây cũng là việc tỏ lòng tôn kính thần thánh, mỗi người trong cuộc đều phải quên cái tôi riêng hòa nhập vào cái ta chung linh thiêng và đầy hứng khởi. Không được đầy đủ như xưa nhưng đám rước vẫn đảm bảo được những vị trí trọng yếu truyền thống. Đi đầu là những lá cờ thần do các chân cờ đảm nhiệm, sau đó là hai thanh niên vác biển nhỏ sơn son thếp vàng hình chữ nhật, góc uốn tròn, đi hai bên, một bên đề chữ “hồi ty” (Tránh đi), một bên đề chữ “tĩnh túc” (Yên lặng cung kính), tiến theo là trống cái và chiêng, hiệu trống và chiêng điểm nhịp từng tiếng một trống trước chiêng sau, tiếp đến là đồ bát bửu và hai người vác biển hiệu bầu dục “Thượng đẳng tối linh” (thần tối cao linh ứng), hay biển “lịch triều phong tặng” (Các triều phong tặng), tiếp đến là đội bát âm, sênh tiền, tiếp đến là kiệu long đình do 4 đô tùy khiêng ( phía trước có người cầm trống khẩu để điều khiển nhịp độ đi trên đường của kiệu), hai bên có tàn lọng che, tiếp đến là kiệu văn do 4 đô tùy khiêng hai bên có che tàn lọng, tiếp đến là kiệu bát cống do 8 đô tùy khiêng (có 8 người thường trực thay thế), tiếp đến là chủ tế và hàng quan viên, bô lão chức sắc chậm dãi bước đều trong bộ lễ phục tế lễ hoặc áo the đen, quần ống sớ, khăn xếp từ tốn đi theo đám rước như một lực lượng hộ tống trang nhã, tạo nên một quang cảnh trọn vẹn về nhiều mặt, gây ấn tượng sâu sắc về sự hoàn thiện cho dân làng trong việc ứng xử chu đáo với vị thần hộ mệnh của dân làng mình, tiếp theo đoàn rước là nhân dân đủ mọi lứa tuổi chen chúc náo nức trong tiếng trống tiếng chiêng hội làng. Đoàn rước được xuất phát từ đình ra đền rồi ra đến cung cũ (Sám cung – hiện giờ là lăng mộ), rồi lại quay về đình kết thúc một ngày hành lễ.
Ngày thứ ba (ngày 12/2 /âm lịch) ngày cuối cùng của lễ hội, chủ yếu diễn ra phần hội với các trò chơi mang tính thượng võ như: đấu vật, kéo co; trò chơi thi tài, giải trí như: cờ người, tổ tôm...Có thể nói ngày cuối cùng của hội là để dân làng vui chơi thỏa thích, thoải mái, không bị ràng buộc bởi nghi lễ tôn giáo, đẳng cấp và tuổi tác. Sau những ngày tháng làm ăn lam lũ, dân làng chờ đón một ngày hội như chờ đón một niềm vui cộng đồng, họ đến với hội trong tinh thần cộng cảm, hồ hởi sảng khoái và hoàn toàn tự nguyện, họ vừa là tác giả kịch bản của hội, vừa là đạo diễn vừa là diễn viên đồng thời làm khán giả luôn. Cả bốn vai trò ấy được biểu hiện đồng thời, hỗ trợ nhau trong tinh thần sảng khoái nhất vì hội đã đáp ứng được một trong các nhu cầu của họ, phải chăng ngoài vui chơi giải trí, ngoài gặp gỡ bầu bạn họ còn được thêm “Lộc thần”, “Lộc thánh” “lộc hội”, hay sự “may mắn” của một năm... Vì vậy mà hội làng Viễn Lãm đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa tinh thần có giá trị làm thỏa mãn cộng đồng, đáp ứng sâu sắc được nhu cầu của toàn dân tạo nên sự đoàn kết một lòng xây dựng quê hương ngày thêm tươi đẹp.
Phương Thịnh